Cảnh báo và những điều cần thận trọng khi sử dụng miếng dán Durogesic
Cảnh báo và những điều cần thận trọng khi sử dụng miếng dán Durogesic
- Phải giám sát các bệnh nhân có các phản ứng bất lợi nghiêm trọng ít nhất trong 24 giờ hoặc lâu hơn sau khi gỡ bỏ miếng dán Durogesic, dựa trên các triệu chứng lâm sàng định rõ, vì nồng độ fentanyl trong huyết thanh giảm dần và giảm khoảng 50% sau 20 đến 27 giờ.
- Nên hướng dẫn cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân biết lượng hoạt chất chứa trong Durogesic có thể gây tử vong, đặc biệt ở trẻ em. Vì vậy, họ phải giữ tất cả các miếng dán tránh xa tầm nhìn và tầm tay trẻ em, cả trước khi và sau khi sử dụng.
- Trường hợp chưa từng sử dụng hoặc không dung nạp opioid: Rất hiếm gặp các trường hợp suy hô hấp đáng kể và/hoặc tử vong khi Durogesic là trị liệu opioid đầu tiên được sử dụng cho bệnh nhân chưa từng dùng opioid, đặc biệt ở bệnh nhân đau không do ung thư. Nguy cơ giảm thông khí nghiêm trọng hoặc đe doạ tính mạng vẫn xảy ra ngay cả khi dùng Durogesic liều thấp nhất để khởi đầu trị liệu cho bệnh nhân chưa từng dùng opioid, đặc biệt ở người cao tuổi hoặc bệnh nhân suy gan hoặc suy thận. Khả năng tiến triển dung nạp thuốc khác nhau nhiều giữa các cá thể. Khuyến cáo sử dụng Durogesic ở bệnh nhân đã biết có dung nạp opioid.
- Tình trạng suy hô hấp: Một số bệnh nhân có thể bị suy hô hấp khi dùng Durogesic; phải theo dõi bệnh nhân để phát hiện những tác dụng phụ này. Suy hô hấp có thể vẫn kéo dài sau khi loại bỏ miếng dán Durogesic. Tỷ lệ suy hô hấp gia tăng khi tăng liều Durogesic.
- Các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương (CNS), bao gồm cả rượu và thuốc giảm đau gây ngủ ức chế CNS: Dùng Durogesic các loại này có thể tăng các tác dụng không mong muốn của Durogesic; nên tránh sử dụng đồng thời. Nếu cần thiết dùng Durogesic với thuốc ức chế CNS trên lâm sàng, kê đơn liều thấp nhất và duy trì thời gian tối thiểu dùng hai thuốc, và theo dõi bệnh nhân chặt chẽ về dấu hiệu suy hô hấp và gây ngủ.
- Đối với bệnh nhân bị bệnh phổi mạn tính: Miếng dán Durogesic có thể gây ra nhiều tác dụng bất lợi nghiêm trọng hơn ở bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hoặc các bệnh phổi khác. Ở những bệnh nhân này, opioid có thể làm giảm hoạt động kiểm soát hô hấp và tăng sức cản đường thở
- Có thể gây ra sự phụ thuộc vào thuốc và khả năng lạm dụng thuốc: Sự dung nạp, sự phụ thuộc vào thuốc về thể chất và về tinh thần có thể xuất hiện khi dùng opioid lặp lại. Fentanyl có thể bị lạm dụng theo phương thức tương tự như khi dùng các chất chủ vận opioid khác. Lạm dụng hoặc cố ý dùng sai Durogesic có thể dẫn đến quá liều và/hoặc tử vong. Bệnh nhân với tiền sử phụ thuộc thuốc hoặc nghiện rượu có nhiều nguy cơ phụ thuộc và lạm dụng trị liệu opioid hơn. Bệnh nhân có nguy cơ gia tăng lạm dụng opioid vẫn có thể được điều trị thích hợp bằng các chế phẩm opioid phóng thích biến đổi; tuy nhiên, cần giám sát các dấu hiệu về dùng sai, lạm dụng, hoặc nghiện thuốc ở những bệnh nhân này.
- Đối với bệnh nhân bị bệnh lý thần kinh trung ương bao gồm tăng áp lực nội sọ: Thận trọng khi dùng Durogesic cho bệnh nhân có thể nhạy cảm đặc biệt với các tác động nội sọ do tăng CO2 máu như người có biểu hiện tăng áp lực nội sọ, giảm ý thức, hoặc hôn mê. Nên dùng Durogesic cẩn thận ở bệnh nhân có u não.
- Đối với bệnh nhân bị bệnh tim: Fentanyl có thể gây chậm nhịp tim và do đó sử dụng cẩn thận ở bệnh nhân có loạn nhịp tim chậm.
- Đối với người bị hạ huyết áp: Opioid có thể gây hạ huyết áp, đặc biệt ở bệnh nhân có giảm thể tích máu cấp tính. Phải điều chỉnh tình trạng hạ huyết áp tiềm ẩn, hạ huyết áp có triệu chứng và/hoặc giảm thể tích máu trước khi khởi đầu điều trị với miếng dán phóng thích qua da fentanyl.
- Đối với bệnh nhân suy gan: Fentanyl được chuyển hóa tại gan thành các chất chuyển hóa không có hoạt tính nên suy gan có thể làm chậm thải trừ thuốc. Nếu bệnh nhân suy gan dùng Durogesic, cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận về các dấu hiệu độc tính của fentanyl và giảm liều Durogesic nếu cần.
- Đối với bệnh nhân suy thận: Dù giảm chức năng thận được cho không ảnh hưởng đến thải trừ fentanyl đến mức độ có liên quan trên lâm sàng, vẫn cần thận trọng vì chưa đánh giá dược động học fentanyl ở quần thể bệnh nhân này. Nếu bệnh nhân suy thận dùng Durogesic, theo dõi bệnh nhân cẩn thận về các dấu hiệu độc tính của fentanyl và giảm liều nếu cần. Áp dụng thêm các điều hạn chế ở bệnh nhân suy thận chưa từng điều trị với opioid.
- Đối với bệnh nhân bị sốt hoặc sử dụng nguồn ngoại nhiệt: Nồng độ fentanyl có thể tăng nếu nhiệt độ da gia tăng. Do đó, nên theo dõi các tác dụng không mong muốn của opioid và điều chỉnh liều Durogesic nếu cần ở bệnh nhân bị sốt. Liều fentanyl từ hệ thống phóng thích có thể gia tăng theo nhiệt độ, dẫn đến khả năng quá liều và tử vong. Bệnh nhân tránh để vùng da dán Durogesic tiếp xúc trực tiếp với các nguồn nhiệt bên ngoài như miếng đệm sưởi, chăn điện, nệm nước nóng, đèn sưởi hoặc đèn làm nâu da, tắm nắng, chai nước nóng, tắm nóng kéo dài, xông hơi khô và tắm spa xoáy nước nóng.
- Người mắc hội chứng serotonin: Thận trọng khi dùng Durogesic cùng với các thuốc ảnh hưởng lên các hệ thống dẫn truyền thần kinh thông qua serotonin (serotonergic). Sự xuất hiện hội chứng serotonin đe dọa tính mạng có thể xảy ra khi sử dụng các hoạt chất làm tăng nồng độ serotonin như các chất ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin (SSRI) và các chất ức chế tái hấp thu kép serotonin – norepinephrine (SNRI) và với các hoạt chất làm giảm chuyển hóa serotonin (bao gồm các chất ức chế Monoamine Oxidase [MAOI]). Hội chứng này có thể xảy ra khi dùng liều khuyến cáo. Hội chứng serotonin có thể bao gồm thay đổi trạng thái tâm thần (như kích động, ảo giác, hôn mê), rối loạn hệ thần kinh tự động (như nhịp tim nhanh, huyết áp không ổn định, tăng thân nhiệt), bất thường thần kinh cơ (như tăng phản xạ, rối loạn phối hợp vận động, co cứng), và/hoặc các triệu chứng tiêu hóa (như buồn nôn, nôn, tiêu chảy). Phải ngừng Durogesic nếu nghi ngờ có hội chứng serotonin.
- Vô tình tiếp xúc do miếng dán dịch chuyển: Khi miếng dán dính sang da của một người khác không dùng miếng dán (đặc biệt là trẻ em) do nằm chung giường hoặc tiếp xúc gần gũi với đối tượng đang dùng miếng dán, có thể xảy ra tình trạng quá liều opioid ở người không dùng miếng dán này. Nên khuyên bệnh nhân nếu xảy ra sự cố miếng dán dịch chuyển tình cờ như vậy, phải lập tức gỡ bỏ miếng dán khỏi da của người không dùng miếng dán.
- Sử dụng ở bệnh nhân cao tuổi: Dữ liệu từ các nghiên cứu dùng fentanyl tiêm tĩnh mạch cho thấy bệnh nhân cao tuổi có thể giảm độ thanh thải, kéo dài thời gian bán thải, và nhạy cảm hơn với hoạt chất so với bệnh nhân trẻ tuổi. Nếu bệnh nhân cao tuổi dùng Durogesic, nên theo dõi bệnh nhân cẩn thận về các dấu hiệu độc tính của fentanyl và giảm liều nếu cần.
- Trên đường tiêu hóa: Opioid làm tăng trương lực và làm giảm nhu động đẩy của cơ trơn đường tiêu hóa. Hậu quả kéo dài thời gian vận chuyển thức ăn qua đường tiêu hóa có thể là nguyên nhân gây tác dụng táo bón của fentanyl. Nên khuyên bệnh nhân các biện pháp phòng ngừa táo bón và xem xét sử dụng thuốc nhuận tràng để dự phòng. Cần thận trọng hơn khi dùng miếng dán cho bệnh nhân bị táo bón mạn tính. Ngừng dùng Durogesic nếu xuất hiện hoặc nghi ngờ bị tắc ruột do liệt ruột.
- Đối với bệnh nhân có bệnh nhược cơ: Có thể xảy ra các phản ứng rung giật cơ không phải động kinh. Cần thận trọng khi dùng thuốc này cho bệnh nhân có bệnh nhược cơ.
- Đối với trẻ em: Không dùng Durogesic cho bệnh nhân nhi chưa từng sử dụng opioid. Có thể xảy ra giảm thông khí nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng bất kể liều dùng của miếng dán phóng thích qua da Durogesic. Durogesic chưa được nghiên cứu trên trẻ dưới 2 tuổi. Chỉ nên dùng Durogesic cho trẻ từ 2 tuổi trở lên có dung nạp opioid. Để đề phòng trẻ vô tình nuốt miếng dán, hãy thận trọng khi chọn vị trí dán Durogesic và theo dõi chặt chẽ độ bám dính của miếng dán.
Ảnh hưởng của thuốc Durogesic đến khả năng lái xe và vận hành máy móc
Vì Durogesic có thể làm giảm năng lực tinh thần và/hoặc thể chất cần để thực hiện các công việc có thể nguy hiểm như lái xe hoặc vận hành máy móc, vì vậy không nên sử dụng khi làm các công việc này.
Thuốc này có thể làm giảm chức năng nhận thức và ảnh hưởng đến khả năng lái xe an toàn của bệnh nhân.
Thuốc phải được dùng theo hướng dẫn của bác sỹ kê đơn và hướng dẫn trong thông tin cung cấp cùng với thuốc.
Việc sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú
Đối với phụ nữ có thai: Hiện nay chưa có dữ liệu đầy đủ về sử dụng Durogesic ở phụ nữ có thai. Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy một số độc tính trên khả năng sinh sản. Chưa rõ nguy cơ tiềm ẩn đối với người, mặc dù nhận thấy fentanyl đã đi qua nhau thai khi dùng để gây mê đường tĩnh mạch ở phụ nữ có thai. Đã có báo cáo về hội chứng cai thuốc ở trẻ sơ sinh khi người mẹ dùng Durogesic lâu dài trong thai kỳ. Không nên dùng Durogesic trong lúc mang thai trừ khi thật sự cần thiết.
Không khuyến cáo dùng Durogesic trong giai đoạn sinh con vì thuốc này không được dùng để điều trị đau cấp tính hay đau sau phẫu thuật. Hơn nữa, vì fentanyl đi qua nhau thai, sử dụng Durogesic trong khi sinh con có thể dẫn đến suy hô hấp ở trẻ sơ sinh.
Đối với phụ nữ cho con bú: Vì Fentanyl có thể bài tiết vào sữa mẹ và có thể gây ngủ hoặc suy hô hấp ở trẻ bú sữa mẹ. Do đó, nên ngừng cho con bú sữa mẹ trong thời gian điều trị với Durogesic và ít nhất trong 72 giờ sau khi gỡ bỏ miếng dán.
Hướng dẫn xử trí khi dùng quá liều
Các biểu hiện của quá liều fentanyl là gia tăng các tác dụng dược lý của thuốc, tác dụng nghiêm trọng nhất là suy hô hấp.
Để xử trí tác dụng suy hô hấp, các biện pháp đối phó tức thì gồm gỡ bỏ miếng dán Durogesic và đánh thức bệnh nhân bằng cách gọi hay lay bệnh nhân. Sau đó, có thể dùng một chất đối kháng opioid đặc hiệu như naloxone. Suy hô hấp sau khi dùng thuốc quá liều có thể kéo dài hơn thời gian tác dụng của thuốc đối kháng opioid. Nên lựa chọn cẩn thận khoảng cách giữa các liều thuốc đối kháng tiêm tĩnh mạch vì khả năng ngủ mê trở lại có thể xảy ra sau khi đã gỡ bỏ miếng dán; có thể cần lặp lại liều naloxone hoặc truyền tĩnh mạch liên tục naloxone. Đối kháng tác dụng giảm đau gây ngủ có thể gây khởi phát cơn đau cấp tính và giải phóng các catecholamine.
Nếu tình trạng lâm sàng yêu cầu, phải thiết lập và duy trì một đường thở thông thoáng, có thể đặt ống thở đường mũi miệng hoặc ống nội khí quản, và nên cung cấp oxy và hỗ trợ hô hấp hoặc kiểm soát hô hấp, khi thích hợp. Cần duy trì thân nhiệt và cung cấp dịch đầy đủ
Nếu hạ huyết áp nặng hoặc dai dẳng, nên lưu ý đến giảm thể tích máu và điều trị tình trạng này bằng cách truyền dịch thích hợp.
Nhận xét
Đăng nhận xét